Thủy ngân là kim loại nặng thường được dùng trong các loại nhiệt kế, áp kế và các vật dụng khoa học. Thủy ngân có dạng lỏng ở nhiệt độ thường.
- Những bệnh răng miệng thường gặp ở người cao tuổi
- Điểm tên các bệnh người cao tuổi thường gặp hiện nay
- Cách điều trị bệnh lẫn ở người cao tuổi hiệu quả
Nhiễm độc thủy ngân nguy hiểm thế nào?
Thông tin cần biết về thủy ngân
Thủy ngân nguyên chất lỏng thì thường ít độc nhưng các hợp chất và các loại muối thủy ngân thì rất độc. Khi con người tiếp xúc, hít thở, ăn phải, chúng gây ra các tổn thương gan và não.
Thủy ngân là chất độc rất dễ dàng hấp thụ đường hô hấp, qua da và cơ quan tiêu hóa. Thủy ngân nguyên chất ít độc nhưng nó tạo ra các hợp chất hữu cơ trong các cơ thể sinh vật nên tạo sự ô nhiễm đối với môi trường. Hợp chất độc nhất của nó là đimetyl thủy ngân, có thể gây tử vong cho người trưởng thành dù chỉ vài micrôlít rơi vào da. Khi thủy ngân vào cơ thể, chúng tấn công hệ nội tiết, hệ thần kinh trung ương, miệng, răng, các cơ hàm mặt. Ngộ độc kéo dài gây các tổn thương não, dị tật thai nhi, thậm chí gây tử vong.
Nguồn lây nhiễm thủy ngân
Ở điều kiện thường, kim loại thủy ngân là kim loại duy nhất ở dạng lỏng, một chất lỏng màu xám bạc bởi chúng hóa lỏng ở nhiệt độ thấp. Chúng gây hại khi phát tán ở không khí và con người hít phải. Thủy ngân sinh ra từ hoạt động của các nhà máy điện đốt than đá, lò đốt rác và đám cháy rừng. Khi các loài cá nước ngọt và nước mặn như: cá vược, cá chó, cá mập, cá kiếm,… nhiễm thủy ngân và khi con người ăn phải khiến methyl thủy ngân ngấm vào cơ thể.
Ngoài ra theo nhiều bí quyết chăm sóc sức khỏe được biết, hợp chất thủy ngân vô cơ được tìm thấy trong pin, thuốc mỡ bôi, thuốc uống, thuốc xịt muỗi,… Nếu không may con người hít hoặc nuốt vào cơ thể sẽ gây độc.
Thường có mặt trong các loại sơn: sơn ngoại thất, sơn từ nhựa mủ, bả chống thấm, mỹ phẩm dành cho mắt, các loại dụng cụ vệ sinh cá nhân đó là phenylmercury (một dạng hợp chất của thủy ngân). Phenylmercury xâm nhập vào cơ thể qua không khí, đường tiêu hóa và ngấm vào da.
Tiếp xúc với thủy nhân diễn ra nhiều nhất là ăn hải sản, các loại thực vật bị nhiễm thủy ngân. Khi đã tiếp xúc với cơ thể thủy ngân hấp thụ hoàn toàn vào máu, đi đến não. Ngoài ra nó cũng qua nhau thai đến thai nhi gây dị tật bẩm sinh. Triệu chứng điển hình của việc nhiễm độc thủy ngân là tê môi, nhói đau ở ngón tay, ngón chân.
Một khi tiếp xúc với cơ thể, thủy ngân được hấp thụ gần như hoàn toàn vào máu và phân phối tới mọi mô bao gồm bộ não. Nó cũng truyền qua nhau thai đến thai nhi. Nếu tiếp xúc với thủy ngân trong thời gian dài dẫn đến run rẩy, mất trí nhớ, mất ngủ, viêm lợi, đau đầu, mệt mỏi, thay đổi tâm lý và tính cách,…
Triệu chứng lâm sàng đặc trưng của bệnh
Tùy vào khoảng thời gian, cường độ và dạng thủy ngân mà cơ thể biểu hiện ngộ độc khác nhau. Nếu hít thủy ngân hay nuốt phải thủy ngân vô cơ gây ngộ độc cấp, thủy ngân hữu cơ là ăn phải cá chứa thủy ngân gây ngộ mạn.
- Hít phải thủy ngân gây bệnh phổi nặng cấp tính với các triệu chứng: ớn lạnh, khó thở, sốt nặng hơn có thể gây lơ mơ, co giật, buồn nôn và nôn, chảy máu lợi, viêm ruột,… những triệu chứng này có thể dịu đi sau 1 tuần. Một số trường hợp nặng gây suy hô hấp thậm chí tử vong.
- Ngộ độc thủy ngân mạn gây viêm lợi, chảy dãi, rối loạn tâm thần, run giật tay. Trẻ em sẽ bị mất ngủ, bỏ ăn, buồn bực, tâm lý không ổn định.
- Nếu nuốt phải thủy ngân vô cơ (pin) gây bỏng miệng, buồn nôn, nôn ra máu, đau bụng, sau vài ngày sẽ bị hoại tử thận, suy thận, tử vong.
- Nếu ăn thức ăn như cá biển chứa thủy ngân hữu cơ gây ngộ độc mạn, triệu chứng có thể xuất hiện sau vài tuần. Biểu hiện thần kinh là suy nhược thần kinh, run cơ, rối loạn cử động, rối loạn tâm thần, giảm thính giác, loạn vận ngôn,… đặc biệt đối với thai nhi có mẹ thường xuyên ăn gây dị tật bẩm sinh, ngộ độc thai, chậm phát triển, biến dạng chân tay, sảy thai,…
Điều trị
Phải nhanh chóng đánh giá tình trạng hô hấp, tuần hoàn của bệnh nhân, cởi bỏ quần áo bị nhiễm bẩn, rửa da bằng nước sạch, rửa mắt nếu bị nhiễm. Nếu nuốt phải không gây nôn, không rửa dạ dày (bởi nguy cơ thủng dạ dày), không dùng than hoạt tính (bởi than hoạt tín không có tác dụng hấp thụ kim loại), chỉ nên truyền dịch ngăn ngừa trụy tim mạch. Nếu hít phải gây tổn thương hệ hô hấp nên đặt nội khí quản để ngăn ngừa tắc nghẽn hô hấp. Cần đưa bệnh nhân đến khám chuyên khoa để được dùng thuốc giải độc đặc hiệu.
Nguồn: suckhoenguoicaotuoi.edu.vn