Mất trí nhớ phá vỡ cuộc sống hàng ngày, không phải là một phần điển hình của tuối già mà có thể là triệu chứng của bệnh Alzheimer, một bệnh trầm trọng của não bộ.
- Dấu hiệu nhận biết và cách điều trị bệnh viêm họng
- Dinh dưỡng qua thông dạ dày như thế nào?
- Nguyên nhân ra gây bệnh tiểu đêm ở người cao tuổi
Các bệnh lý tâm thần kinh ở người cao tuổi
Một số bệnh lý thường gặp ở tuổi già
Các bệnh lý cơ thể: tim mạch, ung thư, tai biến mạch máu não, các bệnh lý sa sút tâm thần và phổi được coi là 5 nguyên nhân tử vong chính ở người già, ví dụ như cao huyết áp là một bệnh lý tim mạch xuất hiện ở ít nhất 40% người lớn tuổi, cùng với xơ vữa động mạch là một bệnh lý hay đi kèm cùng với bệnh tim mạch và cao huyết áp. Tuổi già còn là một sự xuống cấp của các cơ quan cảm giác, có ít nhất 1/3 trong họ bị giảm thính lực, 1/2 các cụ trong độ tuổi 75 – 85 bị cườm, 70% bị tăng nhãn áp.
Theo nhiều trang tin bí quyết chăm sóc sức khỏe cho biết, các bệnh lý tâm thần ở tuổi già trầm cảm: trầm cảm ở người cao tuổi có tỷ lệ tái phát và tỷ lệ tự sát gia tăng theo tuổi. Gia đình cần lưu ý khi các cụ có những biểu hiện như tình trạng buồn, rầu rĩ kéo dài, giảm hứng thú và thoái lui khỏi các hoạt động bên ngoài, không muốn giao tiếp, hành vi cử chỉ chậm chạp bất thường so với tuổi, có những lời nói phát biểu bi quan chán nản, than kém trí nhớ.
Triệu chứng trầm cảm điển hình: khí sắc trầm cảm như mất quan tâm và hứng thú; rối loạn giấc ngủ; rối loạn sự ngon miệng, sụt hoặc tăng cân; mất tập trung; cảm giác mệt mỏi, suy nhược; chậm chạp hoặc kích động; mặc cảm tội lỗi, đánh giá thấp bản thân; ý nghĩ chết chóc, tự sát.
Một số bệnh lý thường gặp ở tuổi già
Đặc biệt trầm cảm ở người già có khi biểu hiện giống như một tình trạng giả sa sút tâm thần như lú lẫn, suy giảm trí nhớ. Mặt khác ở một số cụ trầm cảm và sa sút tâm thần có thể cùng xuất hiện song song làm khó khăn cho việc chẩn đoán và điều trị.
Giảm sút khả năng nhận thức (Mild Cognitive Impairment – MCI)
Nhiều bản tin tức sức khỏe khác cho thấy ở nhóm người trên 65 tuổi chỉ còn khoảng 20 – 40% là còn duy trì được một khả năng trí nhớ, nhận thức linh hoạt và chính xác, phần lớn họ đều có ít nhiều sút giảm trí nhớ chủ quan khi so với 5 – 10 năm trước đó, ví dụ như hay quên vật dụng và chỗ của chúng… Ở mức độ nặng hơn, các chức năng nhận thức và sinh hoạt đã có khiếm khuyết rõ ràng: suy giảm các kỹ năng nghề nghiệp, khó khăn khi nhớ tên người, kém khả năng tập trung chú ý hơn, dễ quên những sự kiện mới xảy ra…
Tùy vào nguyên nhân mà diễn tiến của tình trạng giảm sút trí nhớ và nhận thức này có thể giữ nguyên trạng, nặng thêm một mức hoặc tiến triển xấu đi vào sa sút. Các bệnh lý như tai biến mạch máu não nhẹ, kín đáo hoặc rõ rệt, các rối loạn tâm thần, các bệnh cơ thể đều có thể là nguyên nhân và ảnh hưởng tới diễn tiến nặng hoặc nhẹ của bệnh. Trong đó nặng nề nhất là bệnh Alzheimer vì sẽ đưa bệnh nhân đi vào giai đoạn sa sút bất hồi phục, có một số bệnh nhân có thể duy trì được tình trạng giảm sút nhận thức từ 5 – 7 năm sau đó bắt đầu đi vào sa sút.
Sa sút do bệnh mạch máu não (Vascular dementia)
Dạng sa sút này chiếm khoảng 15%, trên bệnh nhân nhồi máu não với kích cỡ và các vùng khác nhau trên não. Diễn tiến sa sút thường tuần tiến theo kiểu bậc thang. Tuy nhiên, do nguy cơ tai biến mạch máu não tái diễn nên có thể vẫn tiến triển nhanh, hơn nữa trong các thể sa sút hỗn hợp, sa sút mạch máu còn làm tăng nguy cơ tử vong so với thể Alzheimer đơn thuần.
Sa sút do bệnh mạch máu não (Vascular dementia)
Nhiều tâm sự người cao tuổi cho biết, biểu hiện ngoài sa sút còn có thể thấy các dấu thần kinh định vị trên lâm sàng hoặc hình ảnh học hoặc các bất thường ở đáy mắt, tiếng thổi động mạch cảnh, buồng tim to. Các biểu hiện về cảm xúc (cảm xúc không ổn định, bùng nổ, khoái cảm) thường nổi bật hơn ở sa sút mạch máu. Chức năng nhận thức có thể tạm duy trì hoặc một phần hoặc một số lĩnh vực. Một số dấu hiệu như rối loạn ngôn ngữ, đi khó có thể xuất hiện ngay từ đầu, khác với sa sút Alzheimer chỉ có khi bệnh tiến triển.
Trong điều trị, cần lưu tâm tới điều trị các bệnh lý ảnh hưởng như cao huyết áp, xơ vữa động mạch, tăng lipid máu, tiểu đường… cũng như trong dinh dưỡng cần phòng ngừa bằng cách giảm chất béo, đường, mỡ, tăng cường chất xơ, vitamin…
Nguồn: suckhoenguoicaotuoi.edu.vn